Thời kỳ đầu tiên (1415–1663) Đế_quốc_Bồ_Đào_Nha

Bài này nằm trong loại bài về
Lịch sử Bồ Đào Nha
Thời gian biểu
Chủ đề Bồ Đào Nha

Mặc dù Ceuta được xem như là một sự thất vọng của người Bồ Đào Nha, họ lại quyết định tiếp tục giữ nó khi đi khám phá bờ biển Châu Phi phía Đại Tây Dương.[7] Một nhân vật có vai trò quan trọng trong việc ủng hộ quyết định này là ngài Henrique Nhà hàng hải, người đã tham gia vào cuộc xâm chiếm Ceuta, là người đứng đầu trong việc thúc tiến và tài trợ các chuyến thám hiểm hàng hải Bồ Đào Nha cho đến tận cái chết của ông ấy vào năm 1460.[8] Thời điểm bấy giờ, người Châu Âu không biết được gì nhiều về Châu Phi xa hơn mũi Bojador. Henrique muốn tìm hiểu xem lãnh thổ Hồi giáo ở Châu Phi trải dài đến tận bao xa, và liệu có khả thi để đến Châu Á bằng đường biển; cả hai là để đạt được nguồn xuất xứ của Con đường gia vị hái ra tiền; và có lẽ là để gia nhập với vương quốc Kitô truyền thuyết của Prester John đang được đồn rằng nằm ở đâu đó tại "Indies".[4][9] Dưới sự tài trợ của ông, những hòn đảo Đại Tây Dương Madeira (1419) và  Azores (1427) đã được vươn đến và bắt đầu sản xuất lúa mì xuất khẩu về Bồ Đào Nha.[10]

Thám hiểm bờ biển Phi Châu thời kì đầu

Sự sợ hãi những gì nằm xa hơn mũi Bojador và liệu sẽ có trở về được hay không một khi đã vượt qua nó, đã được làm dịu đi vào 1434 khi nó được vòng quanh bởi Gil Eanes, một trong những thuyền trưởng của Henrique.[11] Vượt qua được nỗi sợ vô hình này, nó đã trở nên dễ dàng hơn cho việc quan sát dọc bờ biển. Năm 1443, hoàng tử Pedro, anh trai của Henrique và lúc đó là nhiếp chính của vương quốc phong cho ông ấy sự độc quyền hàng hải, chiến tranh và thương mại ở các vùng đất phía nam mũi Bojador. Về sau, sự độc quyền này được ban hành bởi các sắc lệnh giáo hội Dum Diversas (1452) và Romanus Pontifex (1455), cho phép Bồ Đào Nha độc quyền thương mại cho những vùng đất mới được khám phá.[12] Một thuận lợi lớn đã thúc đẩy quá trình này là sự phát minh của thuyền caravel giữa thế kỉ 15, một dạng thuyền có thể đi chịu gió hơn bất kì dạng thuyền nào khác đang được sử dụng ở Châu Âu;[13] các nhà hàng hải Bồ Đào Nha giờ đây dễ dàng trong việc đi đến các vĩ độ về phía nam, với tốc độ một vĩ độ trên một năm.[14] Sénégalbán đảo Cabo Verde đã được đi tới vào năm 1445.[15]

Bản đồ phía Tây Châu Phi bởi Lázaro Luis (1563). Tòa lâu đài lớn ở Tây Phi tượng trưng São Jorge da Mina.

Trạm giao thương đại lí vượt biển đầu tiên đã được thiết lập vào năm 1445 trên hòn đảo Arguim, nằm ngoài khơi Mauritanie để thu hút các nhà buôn Hồi giáo và xây dựng độc quyền làm ăn ở các con đường đã đi đến ở Bắc Phi. Năm 1446, Álvaro Fernandes đẩy xa khám phá đến tận Sierra Leone ngày nay, và Vịnh Guinea được đạt tới những năm 1460.[16] Quần đảo Cabo Verde được phát hiện 1456 và đặt chân đến năm 1462.

Sự phát triển của mía tại Madeira bắt đầu vào năm 1455, sử dụng các cố vấn từ Sicilia và thủ đô Genova để sản xuất "muối ngọt" đang hiếm ở Châu Âu thời ấy. Đã nhen nhóm ở Algarve, khả năng đến được Madeira thu hút các nhà buôn người Genoa và Flemish bỏ qua Veneto. Nô lệ được sử dụng, và số lượng nô lệ nhập khẩu vào lên đến 10% dân số Madeira cho đến cuối thế kỉ 16.[17] Đến năm 1480 Antwerpen đã có khoảng bảy mươi thuyền tiến hành giao dịch trong việc mua bán đường Madeira, với phân phối tập trung chủ yếu ở Antwerpen. Cho tới những năm 1490 thì Madeira đã vượt mặt Síp như là nơi sản xuất đường nhiều nhất.[18] Sự thành công của các hãng buôn đường như Bartolomeu Marchionni đã thúc tiến sự đầu tư trong tương lai.[19]

Năm 1469, sau cái chết của hoàng tử Henrique và do kết quả nghèo nàn của các cuộc thám hiểm Phi Châu, vua Afonso V phong độc quyền thương mại ở phần Vịnh Guinea cho nhà buôn Fernão Gomes.[20] Gomes, người đã phải đi thám hiểm 160 km bờ biển mỗi năm trong năm năm, phát hiện các hòn đảo của Vịnh Guinea, trong đó có São Tomé và Príncipe và tìm ra một giao dịch bồi tích tiền tàng với người bản địa, gặp gỡ các nhà buôn Ả Rập và Berber ở một trạm tên là Elmina (mỏ quặng), nơi mà ông ấy thiết lập một trạm giao thương.[21] Giao dịch thương mại giữa Elmina và Bồ Đào Nha phát triển xuyên suốt trong một thập kỉ. Vào năm 1481, đức vua tại vị João II quyết định xây dựng São Jorge da Mina để nhằm bảo vệ đường mậu dịch này, tuy nhiên đã bị phản đối bởi vì hành động này bị xem là sự lạm quyền hoàng gia. Đường xích đạo được các nhà hàng hải băng qua vào năm 1473, với sự tài trợ của Fernão Gomes và qua khỏi sông Congo bởi Diogo Cão năm 1482. Và cũng trong chuyến thám hiểm này, người Bồ Đào Nha lần đầu tiên chạm trán Vương quốc Kongo, và ngay sau đó đã thiết lập quan hệ quan giao với họ.[22] Trong chuyến thám hiểm 1485–86, Cão tiếp tục đi đến Cape Cross (thuộc Namibia ngày nay) nằm gần chí tuyến Nam.[23]

Phần lãnh thổ Bồ Đào Nha chiếm đóng của Maroc (1415-1769)

Năm 1488, Bartolomeu Dias vòng quanh mũi Hảo Vọng ở cực Nam Châu Phi, phản bác được quan điểm sai lầm từ thời Ptolemy rằng Ấn Độ Dương bị khóa trong đất liền. Cùng thời điểm đó, Pêro da Covilhã đã âm thầm di chuyển xuyên lục địa đến Ethiopia, gợi ý rằng một đường biển đến Ấn Độ sẽ sớm xuất hiện.[24]

Với cuộc thám hiểm đường bờ biển của mình ở Châu Phi, người Bồ Đào Nha để lại vô số những giá thập đá padrão, loại thập giái có khắc ghi quốc huy của Bồ Đào Nha được dùng để đánh dấu lãnh thổ,[25] và xây dựng vô số pháo đài và trạm mậu dịch. Từ những cứ địa này, họ sinh lời vào việc buôn bán nô lệ vàng. Bồ Đào Nha chiếm vị trí độc quyền trong việc buôn nô lệ Phi Châu xuyên biển hơn một thế kỉ, nhập về hơn 800 nô lệ mỗi năm. Đa số nô lệ bị đem về thủ đô của Bồ Đào Nha Lisbon, nơi mà sau này người Phi đen được ước tính chiếm đến 10 phần trăm dân số.[26]

Hiệp ước Tordesillas (1494)

Bài chi tiết: Hiệp ước Tordesillas
Hiệp ước Tordesillas xẻ dọc thế giới ra thành hai phần Vương quốc Bồ Đào Nha và ần Castilla (Tây Ban Nha).

Năm 1492, sau khi Christopher Columbus phát hiện cho Tây Ban Nha Tân Thế giới, nơi mà ông tin rằng đó chính là Châu Á, đã dẫn đến tranh chấp giữa Bồ Đào Nha với Tây Ban Nha.[27] Điều này cuối cùng cũng được giải quyết bởi Hiệp ước Tordesillas năm 1494, chia đôi thế giới bên ngoài Châu Âu ra thành một chế độ "song quyền" giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha theo đường kinh tuyến dọc từ bắc xuống nam dài 1,560 km, phía tây quần đảo Cape Verde.[28] Tuy nhiên, vào thời điểm đấy lại không có phương thức chuẩn xác nào để phân định kinh tuyến, và cả hai lại tiếp tục tranh chấp lằn ranh này cho đến tận năm 1777.[29]

Việc hoàn tất hiệp ước này với Tây Ban Nha là một trong nhiều lí do được đưa ra bởi các nhà sử học giải thích tại sao người Bồ Đào Nha lại mất đến chín năm mới tiếp nối chuyến thám hiểm của Dias đến Vịnh Hảo Vọng, tuy vậy người ta cũng đã phát hiện rằng một số cuộc thám hiểm bí mật vẫn được tiến hành ngay trong chính khoảng thời gian này.[30][31] Mặc kệ lí do cho việc đó là gì đi nữa, mục tiêu dài hạn của Bồ Đào Nha là tìm ra một đường biển đến Châu Á cuối cùng cũng đã đạt được trong chuyến thám hiểm lịch sử của ngài Vasco da Gama.[32]

Bồ Đào Nha vào Ấn Độ Dương

Bài chi tiết: Armadas da Índia
Vasco da Gama đặt chân đến Ấn Độ, in 1497

Đoàn thám hiểm của Vasco da Gama rời Bồ Đào Nha năm 1497, vòng quanh mũi cực Nam và tiếp tục đi theo dọc bờ biển Đông Phi, nơi mà một thủy thủ địa phương được đem lên tàu và chỉ đường cho họ xuyên suốt Ấn Độ Dương, đến được Calicut (thủ đô của vương quốc bản địa Zamorin) ở Tây Nam Ấn Độ vào tháng năm 1498.[33] Chuyến du thám thứ hai đến Ấn Độ được tiến hành vào năm 1500 dưới quyền chỉ huy của Pedro Álvares Cabral. Khi đi theo cùng đường biển hướng nam-tây của Gama xuyên qua biển Đại Tây Dương, Cabral lại đặt chân đến bờ biển Brasil ngày nay. Đây có thể là một chuyến khám phá tình cờ của người Bồ Đào Nha, nhưng người ta ngờ vực rằng thật ra họ đã biết được bí mật về sự tồn tại của Brasil, và nó nằm ở phía của họ trên lằn ranh Tordesillas.[34] Cabral đề nghị vua Bồ Đào Nha nên cho định cư ở vùng đất này, và hai cuộc thám hiểm đã được nối tiếp sau đó vào năm 1501 và 1503. Vùng đất được phát hiện có rất nhiều loại cây Caesalpinia echinata, hay còn gọi là "cây Brasil", cái tên mà sau này được dùng để gọi tên phần lãnh thổ này, nhưng lại không tìm thấy bất kì vàng hoặc bạc nào vì thời điểm ấy nguồn lực của Bồ Đào Nha được tập trung vào Ấn Độ.[35] Năm 1502, để áp đặt ưu thế độc quyền của mình lên vùng biển Ấn Độ Dương, Đế quốc Bồ Đào Nha tạo ra hệ thống đăng kí giấy phép cartaz, cho phép các tàu buôn được bảo vệ khỏi hải tặc và các quốc gia so kè.[36]

Những cuộc khám phá và thám hiểm của Bồ Đào Nha: ngày tháng, nơi đặt chân đến đầu tiên; những con đường gia vị chính của Bồ Đào Nha (màu xanh)

Hưởng lợi từ sự ganh đua giữa Vương quốc CochinZamorin xứ Calicut, người Bồ Đào Nha được xem như một đồng minh, khi họ giành được giấy phép để xây pháo đài Emmanuel (Fort Kochi) và một trạm mậu dịch, nơi định cư Châu Âu đầu tiên ở Ấn Độ. Họ xây dựng một trung tâm thương mại tại thành phố Tangasseri, Quilon (Coulão, Kollam) vào năm 1502, nơi mà đã trở thành tụ điểm thương mại về hạt tiêu,[37] và sau đó xây dựng các xí nghiệp ở Cochin (Cochim, Kochi) và Cannanore (Canonor, Kannur), xây một nhà máy tại Quilon năm 1503. Năm 1505 Vua Manuel I của Bồ Đào Nha chọn Francisco de Almeida làm Phó vương của Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha, thành lập chính quyền Bồ Đào Nha ở phía Đông. Năm đó Bồ Đào Nha cũng xâm chiếm được Kannur, nơi mà họ thành lập pháo đài St. Angelo, và Lourenço de Almeida đặt chân đến Sri Lanka để phát hiện ra cây quế. Mặc dù vua Cankili I xứ Jaffna ban đầu chống đối lại sự tiếp xúc với người Bồ Đào Nha, vương quốc Jaffna đã nhanh chóng nhận được sự chú ý từ quan quyền Bồ Đào Nha ngay sau khi họ phản kháng lại các hoạt động truyền giáo, và vì đặc điểm chiến thuật về khoảng cách của nó với cảng Trincomalee. Trong cùng năm đó, Manuel I hạ lệnh Almeida gia cố các thành trì Bồ Đào Nha ở Kerala và phía trong Đông Phi và nghiên cứu khả năng xây dựng thêm pháo đài ở Sri Lanka và Malacca để đối phó sự thù địch đang gia tăng với người Hồi Giáo trong những khu vực này và mối đe dọa từ các vua nô lệ hồi giáo (Mamluk Sultan).

Một hải đoàn Bồ Đào Nha dưới quyền Tristão da Cunha và Afonso de Albuquerque đánh chiếm Soqotra tại cửa ra vào của Biển Đỏ vào 1506 và Muscat vào 1507. Nhận thất bại ê chề từ việc đánh chiếm Ormuz, họ quyết định đổi sang chiến thuật cắt đứt đường buôn bán ra vào từ Ấn Độ Dương. Madagascar được thám hiểm một phần bởi Cunha, và Mauritius được phát hiện bởi chính Cunha và cả Albuquerque theo kèm. Sau khi chiếm được Soqotra, Cunha và Albuquerque tách ra hoạt động riêng lẻ. Trong khi Cunha chu du giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha vì mục đích trao đổi hàng hóa, Alburquerque đến Ấn Độ để thay thế chức thống đốc sau khi nhiệm kì 3 năm của Almeida kết thúc. Almeida từ chối trao trả lại quyền lực cho Alburquerque và nhanh chóng bắt giam lỏng ông ấy, nơi mà ông bị giam cầm cho đến năm 1509.

Tuy được yêu cầu bởi Manuel I phải tiếp tục tìm hiểu ích lợi của vùng Malacca và Sri Lanka, Almeida lại tập trung vào phía tây Ấn Độ, chính xác hơn là vương quốc Gujarat Sultanate bởi vì ông nghi ngờ rằng có các tay buôn từ vùng này có nhiều quyền lực hơn. Vua nô lệ Al-Ashraf Qansuh Al-Ghuri cùng với vua Gujarati tấn công lực lượng Bồ Đào Nha ở cảng Chaul, dẫn đến cái chết của con trai Almeida. Để đáp trả lại, người Bồ Đào Nha đánh và phá hủy các hải đoàn Mamluk và Gujarati trong trận hải chiến Diu năm 1509.

Do sự chống đối từ Almeida, vua Manuel I và hội đồng của ông ở Lisbon đã phải phân phối quyền lực ở Ấn Độ Dương, chia thành 3 khu vực quyền hạn: Alburquerque được gửi đi Biển Đỏ, Diogo Lopes de Sequeira đến Đông Nam Á, tìm kiếm sự đồng thuận với vua hồi giáo của Malacca, và Jotge de Aguiar theo sau là Duarte de Lemos được gửi đến khu vực giữa Mũi Hảo Vọng vàà Gujarat. Tuy nhiên, các khu vực như vậy sau đó đã được tập trung bởi Afonso de Alburquerque sau khi ông nắm quyền và củng cố được sự thống trị của mình.

Trao đổi với Châu Á hải đảo, Châu Phi và Ấn Độ Dương

Goa, Malacca và Đông Nam Á

Vào đến cuối năm 1509, Albuquerque trở thành phó vương quốc Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha. Trái ngược với Almeida, Albuquerque quan tâm nhiều hơn đến việc cải thiện sức mạnh của hải quân, và cũng tuân theo lợi ích của chính quốc hơn. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là xâm chiếm Goa, nơi có vị trí chiến lược là một pháo đài phòng thủ giữa KeralaGurajat và mang tính quan trọng cho việc nhập khẩu ngựa Ả Rập.

Cuộc đánh chiếm Goa từ vương triều Adil Shahi của vùng Bịjapur vào năm 1510 nhanh chóng bị phản kháng bởi người Bijapur, nhưng với sự giúp đỡ của tay cướp biển đánh thuê người Hindu Timoji, ngày 25 tháng 11 năm đó vùng này đã bị tái chiếm. Tại Goa, Alburquerque khởi đầu mỏ đúc tiền Bồ Đào Nha Đầu tiên ở Ấn Độ vào năm 1510. Ông khuyến khích các di dân Bồ Đào Nha kết hôn với phụ nữ bản xứ, xây dựng một nhà thờ dưới danh nghĩa Catherine thành Alexanderia (vì nó được chiếm lại vào ngày lễ thánh của bà), và cố gắng tạo thiện cảm với người Hindu bằng cách bảo vệ đền thờ của họ và miễn giảm thuế. Bồ Đào Nha giữ gìn mối quan hệ thân thiện với các hoàng đế phía nam Ấn Độ của Đế quốc Vijayanagara.

Vào tháng 4 năm 1511, Albuquerque du thuyền đến MalaccaMalaysia, thị trường hương liệu lớn nhất thời bấy giờ. Mặc dù giao dịch được nắm phần lớn bởi Gujurati, các nhóm khác như Thổ Nhĩ Kì, Ba Tư, Armenia, Ethiopia cũng mua bán ở đó. Albuquerque nhắm đến Malacca để cản trở ảnh hưởng của người Hồi giáo và người Venice lên giao dịch hương liệu và gia tăng sức mạnh của Lisbon. Đến tháng 7 năm 1511, Albuquerque đã chiếm được Malacca và gửi Antonio de AbreuFrancisco Serrão (cùng với Fernão de Magalhães) đi khám phá địa lý vùng Indonesia.

Bán đảo Mã Lai mau chóng trở thành căn cứ chiến lược cho việc mở rộng thương mại Bồ Đào Nha với Trung Quốc và Đông Nam Á. Một cánh cổng rộng, gọi là Formosa, được dựng lên để bảo vệ thành phố và vẫn còn tồn tại đến nay. Biết được tham vọng của Xiêm với Malacca, Albuquerque ngay lập tức gửi Duarte Fernandes đi Vương quốc Xiêm (Thái Lan ngày nay), nơi mà ông chính là người Châu Âu đầu tiên xuất hiện, thiết lập mối quan hệ hữu nghị và thương mại giữa hai bên.

Đế quốc Bồ Đào Nha tiến sâu thêm xuống phía nam và tiếp tục phát hiện ra Timor năm 1512. Jorgge de Meneses khám phá ra New Guinea năm 1526, gọi nó là "Đảo Papua". Năm 1517, João da Silveira chỉ huy một hải đoàn đến Chittagong, và đến 1528, Bồ Đào Nha đã thiết lập một nơi cư trú ở Chittagong. Bồ Đào Nha đặt trung tâm hoạt động của họ dọc bên bờ Sông Hooghly, nơi mà họ gặp người Hồi giáo, HinduChatin.

Trung Quốc và Nhật Bản

Bồ Đào Nha đã đến thăm thành phố Nagasaki, Nhật Bản.

Jorge Alvares là người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc bằng đường biển, trong khi người La Mã là người đầu tiên đi qua Tiểu Á. Ông cũng là người châu Âu đầu tiên khám phá Hồng Kông.[38][39] Năm 1514, Afonso de Albuquerque, Đại sứ của Estado da Ấn Độ, phái Rafael Perestrello của Ý đi thuyền đến Trung Quốc để đi tiên phong trong quan hệ thương mại châu Âu với quốc gia.[40][41]

Mặc dù có sự hòa hợp và phấn khích ban đầu giữa hai nền văn hóa, những khó khăn bắt đầu nảy sinh ngay sau đó, bao gồm cả sự hiểu lầm, sự cố chấp và thậm chí là sự thù địch.[42] Nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Simão de Andrade kích động quan hệ nghèo nàn với Trung Quốc do các hoạt động cướp biển của ông, đột kích vận chuyển Trung Quốc, tấn công một quan chức Trung Quốc và bắt cóc người Trung Quốc. Anh ta sống ở đảo Tamao trong một pháo đài. Người Trung Quốc cho rằng Simão đã bắt cóc các bé trai và bé gái Trung Quốc bị quấy rối và ăn thịt người.[43] Người Trung Quốc đã gửi một phi đội gồm những người chống lại các đoàn lữ hành Bồ Đào Nha đã thành công trong việc đưa người Bồ Đào Nha đi và đòi lại Tamao. Do đó, người Trung Quốc đã đăng một sắc lệnh cấm những người đàn ông có đặc điểm da trắng xâm nhập vào bang Canton, giết chết nhiều người Bồ Đào Nha ở đó và đẩy người Bồ Đào Nha trở lại biển.[44][45]

Một mô tả, từ năm 1639, của Bán đảo Ma Cao, trong thời kỳ hoàng kim của Ma Cao

Sau khi Quốc vương Bintan bắt giữ một số người Bồ Đào Nha dưới thời Tomás Pires, người Trung Quốc sau đó đã xử tử 23 người Bồ Đào Nha và ném phần còn lại vào nhà tù nơi họ cư trú trong điều kiện tồi tệ, đôi khi gây tử vong. Người Trung Quốc sau đó đã tàn sát người Bồ Đào Nha cư trú tại các trạm giao dịch Ninh BaPhúc Kiến vào năm 1545 và 1549, do các cuộc tấn công rộng rãi và gây thiệt hại của người Bồ Đào Nha dọc theo bờ biển, khiến người Trung Quốc tức giận.[44] Cướp biển Bồ Đào Nha đứng thứ hai sau cướp biển Nhật Bản trong thời kỳ này. Tuy nhiên, họ sớm bắt đầu che chắn cho các thiếu gia Trung Quốc và một giao dịch thận trọng bắt đầu. Năm 1557, chính quyền Trung Quốc cho phép người Bồ Đào Nha định cư tại Macau, tạo ra một nhà kho trong thương mại hàng hóa giữa Trung Quốc, Nhật Bản, Goa và Châu Âu.[44][46]

Quần đảo gia vị (Moluccas) và Hiệp ước Zaragoza

Bồ Đào Nha là quốc gia châu Âu đầu tiên thiết lập các tuyến giao thương với Nhật BảnTrung Quốc.

Các hoạt động của Bồ Đào Nha ở châu Á đã không được chú ý, vào năm 1521 Magalhães đã đến khu vực này và tuyên bố Philippines cho Tây Ban Nha. Năm 1525, Tây Ban Nha dưới thời Carlos V đã phái một đoàn thám hiểm xâm chiếm Quần đảo Moluccas, tuyên bố họ ở trong khu vực của Hiệp ước Tordesillas, vì không có giới hạn nào được đặt ở phía đông. Đoàn thám hiểm của García Jofre de Loaísa đã tới Moluccas, cập cảng Tidore. Với người Bồ Đào Nha đã được thành lập ở Ternate gần đó, xung đột là không thể tránh khỏi, dẫn đến gần một thập kỷ của những cuộc giao tranh. Một nghị quyết đã đạt được với Hiệp ước Zaragoza năm 1529, quy kết Moluccas cho Bồ Đào Nha và Philippines cho Tây Ban Nha.[47] Người Bồ Đào Nha giao dịch thường xuyên với Đế quốc Brunei từ năm 1530 và mô tả thủ đô Brunei được bao quanh bởi một bức tường đá.

Nam Á, vịnh Ba Tư và Biẻn Đỏ

Pháo đài Bồ Đào Nha, một trong những pháo đài được bảo quản tốt nhất tại BahrainChân dung Ba Tư của một quý tộc Bồ Đào Nha (thế kỷ 16)

Đế quốc Bồ Đào Nha mở rộng ra vịnh Ba Tư, tranh giành quyền kiểm soát buôn bán gia vị với Đế quốc AjuranĐế quốc Ottoman. Năm 1515, Afonso de Albuquerque đã chinh phục bang Hwuz của Huwala ở đầu Vịnh Ba Tư, thành lập nó như một quốc gia chư hầu. Tuy nhiên, Aden đã chống lại cuộc viễn chinh của Albuquerque trong cùng năm đó và một nỗ lực khác của người kế nhiệm của Lopo Soares de Albergaria vào năm 1516. Năm 1521, một lực lượng do António Correia lãnh đạo đã chiếm được Bahrain, đánh bại vua Jabrid, Muqrin ibn Zamil.[48] Trong một loạt các liên minh thay đổi, người Bồ Đào Nha đã thống trị phần lớn phía nam vịnh Ba Tư trong hàng trăm năm tới. Với tuyến đường hàng hải thường xuyên nối Lisbon đến Goa từ năm 1497, đảo Mozambique trở thành một cảng chiến lược, và đã được xây dựng Fort São Sebastião và một bệnh viện. Ở Azores, Quần đảo Armada bảo vệ các con tàu trên đường đến Lisbon.[49]

Năm 1534, Gujarat phải đối mặt với cuộc tấn công từ các quốc gia MogulRajpur của ChitorMandu. Quốc vương Bahadur Shah của Gujarat đã buộc phải ký Hiệp ước Bassein với người Bồ Đào Nha, thành lập một liên minh để giành lại đất nước, trao đổi Daman, Diu, Mumbai và Bassein. Nó cũng quy định việc buôn bán tàu Gujarati khởi hành đến Biển Đỏ và đi qua Bassein để trả thuế và cho phép buôn bán ngựa.[50] Sau khi nhà cai trị Mughal Humayun thành công chống lại Bahadur, sau đó, người này đã ký một hiệp ước khác với người Bồ Đào Nha để xác nhận các điều khoản và cho phép pháo đài được xây dựng ở Diu. Ngay sau đó, Humayun chuyển sự chú ý của mình sang nơi khác và quân Gujarat đã liên minh với Ottoman để giành lại quyền kiểm soát Diu và bao vây pháo đài. Hai cuộc bao vây thất bại năm 1538 và 1546 chấm dứt tham vọng của Ottoman, khẳng định quyền bá chủ của Bồ Đào Nha trong khu vực,[50][51] cũng như đạt được sự vượt trội so với người Mughal.[52] Tuy nhiên, người Ottoman đã chống lại các cuộc tấn công từ người Bồ Đào Nha ở Biển ĐỏBán đảo Sinai năm 1541 và ở khu vực phía bắc của vịnh Ba Tư vào năm 1546 và 1552. Mỗi thực thể cuối cùng phải tôn trọng phạm vi ảnh hưởng của người kia, mặc dù không chính thức.[53][54]

Châu Phi cận Saharan

Xe ngựa Bồ Đào Nha dỡ hàng hóa ở Lisbon. Bản khắc gốc của Theodor de Bry, 1593, được tô màu vào một ngày sau đó

Sau một loạt các liên hệ kéo dài với Ethiopia, Đại sứ quán Bồ Đào Nha đã liên lạc với Vương quốc Ethiopia (Abyssinian) do Rodrigo de Lima lãnh đạo năm 1520.[55][56] Điều này trùng hợp với cuộc tìm kiếm của người Bồ Đào Nha cho Nhà tù John, vì họ sớm liên kết vương quốc là vùng đất của mình. Nỗi sợ hãi về những tiến bộ của Thổ Nhĩ Kỳ trong khu vực Bồ Đào Nha và Ethiopia cũng đóng một vai trò trong liên minh của họ.[55][57] Vương quốc Hồi giáo Adal đã đánh bại người Ethiopia trong trận Shimbra Kure năm 1529, và đạo Hồi lan rộng hơn trong khu vực. Bồ Đào Nha đã đáp trả bằng cách giúp đỡ vua Gelawdewos với binh lính và súng hỏa mai của Bồ Đào Nha. Mặc dù người Ottoman đã đáp trả với sự hỗ trợ của binh lính và súng hỏa mai cho Vương quốc Adal, sau cái chết của vua Adali Ahmad ibn Ibrahim al-Ghazi trong trận Wayna Daga năm 1543, lực lượng Adal-Ottoman đã rút lui.[58][59][60]

Người Bồ Đào Nha cũng đã liên lạc trực tiếp với nhà nước chư hầu Kongolose Ndongo và người cai trị Ngola Kiljuane vào năm 1520, sau khi các nhà truyền giáo sau đó yêu cầu.[61] Vua Afonso I can thiệp vào quá trình tố cáo, và sau đó đã gửi một nhiệm vụ Kongo đến Ndongo sau khi sau đó đã bắt giữ nhiệm vụ Bồ Đào Nha đã đến.[61] Hoạt động buôn bán nô lệ chính thức và không chính thức ngày càng tăng với mối quan hệ căng thẳng giữa Kongo và người Bồ Đào Nha, và thậm chí còn có các đại sứ Bồ Đào Nha từ Sao Tome ủng hộ Ndongo chống lại Vương quốc Kongo.[62][63] Tuy nhiên, khi Jaga tấn công và chinh phục các khu vực của Kongo vào năm 1568, Bồ Đào Nha đã hỗ trợ Kongo trong thất bại của họ.[64] Đáp lại, Kongo cho phép thực dân hóa Đảo Luanda; Luanda được thành lập bởi Paulo Dias de Novais vào năm 1576 và sớm trở thành cảng nô lệ.[64][65] Liên minh tiếp theo của De Novais với Ndongo đã chọc giận những người Luso-người châu Phi đã phẫn nộ với ảnh hưởng từ Vương thất.[66] Năm 1579, nhà cai trị Ndongo Ngola Kiluanje kia Ndamdi đã tàn sát cư dân Bồ Đào Nha và Kongolese ở thủ đô Ndongo Kabasa dưới ảnh hưởng của những kẻ nổi loạn Bồ Đào Nha. Cả người Bồ Đào Nha và Kongo đã chiến đấu chống lại Ndongo, và chiến tranh ngoài luồng giữa Ndongo và Bồ Đào Nha sẽ tồn tại trong nhiều thập kỷ.[67]

Cuộc thám hiểm truyền giáo

St. Francis Xavier yêu cầu João III của Bồ Đào Nha cho một chuyến thám hiểm truyền giáo ở châu Á

Năm 1542, nhà truyền giáo Dòng Tên, ông Francis Xavier, đã đến Goa để phục vụ vua João II của Bồ Đào Nha, phụ trách một Tòa thánh Tông đồ. Đồng thời Francisco Zeimoto, António Mota và các thương nhân khác đã đến Nhật Bản lần đầu tiên. Theo ông Fernão Mendes Pinto, người tự nhận là trong hành trình này, họ đã đến Tanegashima, nơi người dân địa phương bị ấn tượng bởi súng, điều đó sẽ ngay lập tức được người Nhật thực hiện trên quy mô lớn.[68] Đến năm 1570, người Bồ Đào Nha đã mua một phần cảng Nhật Bản nơi họ thành lập một phần nhỏ của thành phố Nagasaki,[69] và nó trở thành cảng thương mại lớn ở Nhật Bản trong thương mại tam giác với Trung Quốc và châu Âu.[70]

Người Bồ Đào Nha đã bị đánh bại một cách rõ ràng trong nỗ lực đánh chiếm các thành phố cảng Somalia giàu có trên bờ biển Somalia như Mogadishu, Merca, Baraawe, KismarosHobyo bởi Somalia hùng mạnh của Đế quốc Ajura.[71][72][73]

Bảo vệ thương mại của mình từ cả hai đối thủ châu Âu và châu Á, Bồ Đào Nha không chỉ chiếm lĩnh thương mại giữa châu Á và châu Âu, mà còn phần lớn thương mại giữa các khu vực khác nhau của châu Á và châu Phi, như Ấn Độ, Indonesia, Trung Quốc và Nhật Bản. Các nhà truyền giáo Dòng Tên, theo người Bồ Đào Nha để truyền bá Giáo hội Công giáo Rôma đến Châu Á và Châu Phi với thành công hỗn hợp.[74]

Nỗ lực thực dân ở châu Mỹ

Canada

Người Bồ Đào Nha đã lập bản đồ và tuyên bố Canada vào năm 1499 và 1500.

Dựa trên Hiệp ước Tordesillas, Vương thất Bồ Đào Nha, dưới thời các vị vua Manuel I, João IISebastian của Bồ Đào Nha, cũng đã giành được quyền lãnh thổ ở Bắc Mỹ (đạt được bởi John Cabot vào năm 1497 và 1498). Cuối cùng, vào năm 1499 và 1500, João Fernandes Lavrador đã khám phá Greenland và bờ biển phía bắc Đại Tây Dương của Canada, nơi xuất hiện "Labrador" trên bản đồ địa hình thời kỳ này.[75] Sau đó, vào năm 1500–1501 và 1502, hai anh em Gaspar và Miguel Corte-Real đã khám phá những gì ngày nay là tỉnh Newfoundland và Labrador của CanadaGreenland, tuyên bố những vùng đất này cho Bồ Đào Nha. Năm 1506, Vua Manuel I đã tạo ra thuế cho nghề cá tuyết ở vùng biển Newfoundland.[cần dẫn nguồn] Khoảng năm 1521, João Álvares Fagundes đã được trao quyền tài trợ cho các hòn đảo bên trong Vịnh Saint Lawrence và cũng tạo ra một khu định cư trên đảo Đảo Cape Breton để làm cơ sở đánh bắt cá tuyết. Áp lực từ người bản địa và nghề cá châu Âu cạnh tranh đã ngăn cản một cơ sở thường trú và bị bỏ rơi năm năm sau đó. Một số nỗ lực để thiết lập các khu định cư ở Newfoundland trong nửa thế kỷ tiếp theo cũng thất bại.[76]

Brasil

Trong một vài năm sau khi Cabral đến từ Brasil, sự cạnh tranh đến từ Pháp. Năm 1503, một đoàn thám hiểm dưới sự chỉ huy của Gonçalo Coelho đã báo cáo các cuộc tấn công của Pháp vào bờ biển Brasil,[77] và nhà thám hiểm Binot Paulmier de Gonneville đổi lấy Brasilwood sau khi liên lạc ở miền nam Brasil một năm sau đó.[78] Các cuộc thám hiểm được tài trợ bởi Francis I dọc theo bờ biển Bắc Mỹ đã vi phạm trực tiếp Hiệp ước Tordesillas.[79] nhưng các cuộc tấn công sẽ tiếp tục là một vấn đề trong thập niên 1560.[79]

Sau khi de Sousa đến và thành công, mười lăm vùng vĩ độ, theo lý thuyết là kéo dài từ bờ biển đến giới hạn Tordesillas, đã được João III ra lệnh vào ngày 28 tháng 9 năm 1532.[80] Âm mưu của những vùng đất được hình thành như một thuyền trưởng đại úy (Capitanias Hereditárias) cho những người được cấp đủ giàu để hỗ trợ định cư, như đã được thực hiện thành công ở Quần đảo Madeira và Cape Verde.[81] Sousa trả lại Lisbon một năm sau đó để trở thành thống đốc Ấn Độ và không bao giờ quay lại Brasil.[82][83] Các cuộc tấn công của Pháp đã chấm dứt ở một mức độ nào đó sau khi bị trả thù dẫn đến việc người Bồ Đào Nha trả tiền cho Pháp để ngừng tấn công các tàu Bồ Đào Nha trên khắp Đại Tây Dương,[79] nhưng các cuộc tấn công sẽ tiếp tục là một vấn đề trong thập niên 1560.[84]

Một bản đồ từ năm 1574 cho thấy 15 di truyền Đại Úy thuộc địa Brasil

Sau khi de Sousa đến và thành công, mười lăm vùng vĩ độ, theo lý thuyết là kéo dài từ bờ biển đến giới hạn Tordesillas, đã được João III ra lệnh vào ngày 28 tháng 9 năm 1532.[82][85] Âm mưu của những vùng đất được hình thành như một thuyền trưởng di truyền (Capitanias Hereditárias) cho những người được cấp đủ giàu để hỗ trợ định cư, như đã được thực hiện thành công ở Quần đảo MadeiraCabo Verde.[86] Mỗi Đại Úy là để xây dựng các khu định cư, cấp phát và quản lý công lý, chịu trách nhiệm phát triển và chịu chi phí thuộc địa, mặc dù không phải là chủ sở hữu: anh ta có thể truyền nó cho con cháu, nhưng không bán nó. Mười hai người nhận đến từ gentry người Bồ Đào Nha trở nên nổi tiếng ở Châu Phi và Ấn Độ và các quan chức cấp cao của tòa án, như João de Barros.[87]

Trong số mười lăm Đại Úy ban đầu, chỉ có hai, Pernambuco và São Vicente, đã phát triển thịnh vượng.[88] Cả hai đều được dành riêng cho vụ mùa mía, và những người định cư đã cố gắng duy trì liên minh với Người Mỹ bản địa. Sự phát triển của ngành công nghiệp đường xuất hiện do Crown lấy các nguồn lợi nhuận dễ nhất (Brasilwood, gia vị, v.v.), khiến những người định cư tìm đến các nguồn thu mới.[89] Việc thành lập ngành công nghiệp mía đường đòi hỏi lao động chuyên sâu sẽ được đáp ứng với người Mỹ bản địa và sau đó là nô lệ châu Phi.[90] Do hệ thống capitanias không hiệu quả, João III quyết định tập trung hóa chính quyền thuộc địa để "giúp đỡ và giúp đỡ" cho những người được cấp. Năm 1548, ông đã tạo ra Chính phủ đầu tiên, gửi Tomé de Sousa làm thống đốc đầu tiên và chọn một thủ đô tại Bay of All Saints, biến nó thành Captaincy of Bahia.[91][92]

Tomé de Sousa đã xây dựng thủ đô của Brasil, Salvador, tại vịnh All Saints năm 1549.[93] Trong số 1000 người thám hiểm của de Sousa có binh lính, công nhân và sáu Dòng Tên do Manuel da Nóbrega lãnh đạo.[94] Dòng Tên sẽ có một vai trò thiết yếu trong việc thuộc địa hóa Brasil, bao gồm São Vicente và São Paulo, sau này mà Nóbrega đồng sáng lập.[95] Cùng với các nhiệm vụ Dòng Tên sau đó đã phát bệnh giữa những người bản địa, trong số đó bệnh dịch hạchbệnh đậu mùa.[96] Sau đó, người Pháp sẽ tái định cư trên lãnh thổ Bồ Đào Nha tại vịnh Guanabara, nơi sẽ được gọi là Antarctique thuộc Pháp.[97] Trong khi một đại sứ Bồ Đào Nha được gửi đến Paris để báo cáo về sự xâm nhập của Pháp, Joao III đã bổ nhiệm Mem de Sá làm tổng thống mới của Brasil và Sá rời Brasil vào năm 1557.[97] Đến năm 1560, Sá và lực lượng của ông đã trục xuất Huguenot, người Scotland theo Thần học Calvin và lực lượng nô lệ từ Pháp ở Antarctique, nhưng đã bỏ đi những người sống sót sau khi đốt cháy pháo đài và làng mạc của họ. Những người sống sót này sẽ định cư Vịnh Gloria, Bãi biển FlamengoParapapuã với sự hỗ trợ của người Tamoio người bản địa.[98]

Tamoio đã liên minh với người Pháp kể từ khi định cư Pháp ở Antarctique, và mặc dù Pháp mất năm 1560, Tamoio vẫn là một mối đe dọa.[99] Họ đã phát động hai cuộc tấn công vào năm 1561 và 1564 (sự kiện sau đó là hỗ trợ người Pháp) và gần như đã thành công với mỗi cuộc tấn công.[100][101] Vào khoảng thời gian này, Manuel de Nóbrega, cùng với các tu sĩ Dòng Tên José de Anchieta, tham gia với tư cách là thành viên của các cuộc tấn công vào Tamoios và làm gián điệp cho tài nguyên của họ.[99][100] Từ 1565 đến 1567, Mem de Sá và lực lượng của ông cuối cùng đã phá hủy Antarctique thuộc Pháp tại vịnh Guanabara. Ông và cháu trai của mình, Estácio de Sá, sau đó thành lập thành phố Rio de Janeiro vào năm 1567, sau khi Mem de Sá tuyên bố khu vực "São Sebastião do Rio de Janeiro" vào năm 1565.[102] Đến năm 1575, Tamoios đã bị khuất phục và về cơ bản đã tuyệt chủng,[99] và đến năm 1580, chính phủ đã trở thành ouvidor general hơn là ouvidores.[103]

Liên bang Iberia, Tin lành cạnh tranh, và ứ đọng thuộc địa (1580–1663)

Luso-Tây Ban Nha (hoặc Iberia) vào năm 1598, dưới triều đại của Felipe I và II, vua của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha

Năm 1580, Vua Philip II của Tây Ban Nha đã xâm chiếm Bồ Đào Nha sau một khủng hoảng kế vị do cái chết của Vua Sebastian của Bồ Đào Nha gây ra trong cái chết thảm khốc Cuộc tấn công của Bồ Đào Nha vào Alcácer Quibir tại Maroc năm 1578. Tại Cortes của Tomar năm 1581, Felipe đã lên ngôi Felipe I của Bồ Đào Nha, hợp nhất hai vương thất và đế quốc hải ngoại dưới Habsburg thuộc Tây Ban Nha cai trị trong triều đại Liên minh Iberia.[104] Tại Tomar, Philip hứa sẽ giữ cho các đế quốc khác biệt về mặt pháp lý, để lại chính quyền của Đế quốc Bồ Đào Nha cho các công dân Bồ Đào Nha, với Phó vương Bồ Đào Nha ở Lisbon.[105] Felipe thậm chí đã chuyển thủ đô đến Lisbon trong thời gian hai năm (1581–1583) do đây là thành phố quan trọng nhất trong Bán đảo Iberia.[106] Tất cả các thuộc địa Bồ Đào Nha đã chấp nhận tình trạng mới ngoại trừ Azores, được tổ chức cho António, một đối thủ người Bồ Đào Nha tuyên bố ngai vàng đã giành được sự ủng hộ của Catherine de Medici của Pháp để đổi lấy lời hứa nhượng lại Brasil. Lực lượng Tây Ban Nha cuối cùng đã chiếm được các đảo vào năm 1583.[107]

Ranh giới Tordesillas giữa Tây Ban Nha và quyền kiểm soát của Bồ Đào Nha ở Nam Mỹ sau đó ngày càng bị người Bồ Đào Nha phớt lờ, người đã vượt ra ngoài nó vào trung tâm của Brasil,[105] cho phép họ mở rộng lãnh thổ về phía tây. Các nhiệm vụ thăm dò đã được chính phủ ra lệnh, "entradas" (mục nhập) và theo sáng kiến riêng, "bandeiras" (quốc kỳ), bởi "bandeirantes".[108] Những cuộc thám hiểm này kéo dài trong nhiều năm mạo hiểm vào các khu vực chưa được khai thác, ban đầu để bắt người bản địa và buộc họ làm nô lệ, và sau đó tập trung vào việc tìm kiếm các mỏ vàng, bạckim cương.[109]

Sự phục hồi của São Salvador da Bahía de Todos os Santos, bởi Philip III của Bồ Đào Nha, từ Cộng hòa Hà Lan

Tuy nhiên, liên minh có nghĩa là Tây Ban Nha kéo Bồ Đào Nha vào cuộc xung đột với Anh, Pháp và Cộng hòa Hà Lan, những quốc gia bắt đầu thành lập đế quốc hải ngoại của riêng họ.[110] Mối đe dọa chính đến từ người Hà Lan, người đã tham gia vào đấu tranh giành độc lập chống lại Tây Ban Nha kể từ năm 1568. Năm 1581, Bảy tỉnh giành được độc lập từ Habsburg trong suốt thời gian cai trị, lãnh đạo Felipe II cấm buôn bán với các tàu Hà Lan, kể cả ở Brasil, nơi Hà Lan đã đầu tư một khoản tiền lớn để tài trợ cho sản xuất đường.[111]

Mạng lưới thương mại đế quốc Tây Ban Nha hiện đã được mở cho các thương nhân Bồ Đào Nha, đặc biệt sinh lợi cho các thương nhân nô lệ Bồ Đào Nha, những người hiện có thể bán nô lệ ở châu Mỹ Tây Ban Nha với giá cao hơn mức có thể được bán ở Brasil.[112] Ngoài quyền tới gần mới có được vào Tây Ban Nha asiento, Bồ Đào Nha đã có thể giải quyết vấn đề thiếu thỏi vàng của họ với quyền truy cập vào việc sản xuất khai thác bạc ở Peru và México.[113] Manila cũng được sáp nhập vào mạng lưới giao dịch Macau-Nagasaki, cho phép người Ma Cao gốc Bồ Đào Nha làm đại lý thương mại cho người Tây Ban Nha gốc Philippines và sử dụng bạc Tây Ban Nha từ châu Mỹ để giao dịch với Trung Quốc, và sau đó họ đã cạnh tranh với Công ty Đông Ấn Hà Lan.[114]

Vào năm 1592, trong chiến tranh với Tây Ban Nha, một hạm đội Anh đã chiếm được một chiếc xe ngựa lớn của Bồ Đào Nha ngoài khơi Azores, Madre de Deus, được tải 900 tấn hàng hóa từ Ấn ĐộTrung Quốc ước tính khoảng nửa triệu Bảng Anh (gần một nửa kích thước của Kho bạc Anh tại thời điểm đó).[115] Vận may về sự giàu có của phương Đông này đã làm dấy lên sự quan tâm của người Anh trong khu vực.[116] Cùng năm đó, Cornelis de Houtman được các thương nhân Hà Lan gửi đến Lisbon, để thu thập càng nhiều thông tin càng tốt về Quần đảo Spice.[114][117]

Cuối cùng, Hà Lan đã nhận ra tầm quan trọng của Goa trong việc phá vỡ Đế quốc Bồ Đào Nha ở Châu Á. Năm 1583, thương gia và nhà thám hiểm Jan Huyghen van Linschoten (1563 – 8 tháng 2 năm 1611), trước đây là thư ký Hà Lan của Tổng Giám mục Goa, đã có được thông tin trong khi phục vụ ở vị trí đó có vị trí của các tuyến thương mại bí mật của Bồ Đào Nha trên khắp châu Á, bao gồm cả những người đến Đông Ấn và Nhật Bản. Nó được xuất bản năm 1595; văn bản sau đó được bao gồm trong tập lớn hơn được xuất bản năm 1596 với tiêu đề "Itinerario: Voyage, ofte schipvaert van Jan Huygen van Linschoten naer Oost ofte Portugaels Indien, 1579 ném1592". Lợi ích của người Hà Lan và Anh đã sử dụng thông tin mới này, dẫn đến việc mở rộng thương mại của họ, bao gồm nền tảng của người Anh Công ty Đông Ấn vào năm 1600 và Công ty Đông Ấn Hà Lan vào năm 1602. Những phát triển này cho phép gia nhập công ty điều lệ vào Đông Ấn.[118][119]

Chiến thắng của Bồ Đào Nha tại Trận Guararapes thứ hai đã chấm dứt sự hiện diện của Hà Lan tại Pernambuco.

Người Hà Lan đã chiến đấu ở nước ngoài, tấn công Tây Ban Nha và các thuộc địa Bồ Đào Nha và bắt đầu Chiến tranh Bồ Đào Nha–Hà Lan, sẽ kéo dài hơn sáu mươi năm (1602–1663). Khác Châu Âu một quốc gia, như Tin lành Anh, đã hỗ trợ Đế quốc Hà Lan trong cuộc chiến. Hà Lan đã giành được những chiến thắng ở Châu ÁChâu Phi với sự hỗ trợ của nhiều đồng minh bản địa khác nhau, cuối cùng đã giành quyền kiểm soát Malacca, CeylonSão Jorge da Mina. Hà Lan cũng có quyền kiểm soát khu vực đối với khu vực sản xuất đường sinh lợi ở phía đông bắc Brasil cũng như Luanda, nhưng người Bồ Đào Nha đã giành lại các vùng lãnh thổ này sau cuộc đấu tranh đáng kể.[120][121]

Trong khi đó, tại Bán đảo Ả Rập, Bồ Đào Nha cũng mất quyền kiểm soát Ormuz bởi một liên minh chung của người Safavid và Anh năm 1622 và Oman dưới Al-Ya'arub sẽ chiếm được Muscat vào năm 1650.[122] Họ sẽ tiếp tục sử dụng. Quảng cáo là căn cứ cho các cuộc xâm lược lặp đi lặp lại ở Ấn Độ Dương, bao gồm cả việc chiếm giữ Pháo đài Jesus năm 1698.[123] Ở Ethiopia và Nhật Bản vào những năm 1630, việc trục xuất các nhà truyền giáo của các nhà lãnh đạo địa phương đã cắt đứt ảnh hưởng ở các khu vực tương ứng.[124][125]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Bồ_Đào_Nha http://www.plantnames.unimelb.edu.au/Sorting/Citru... http://www.china.org.cn/english/culture/119676.htm http://algarvedailynews.com/features/history/4372-... //www.amazon.com/dp/B0006BWO3O http://www.colonialvoyage.com/ http://www.geographictravels.com/2012/07/the-geogr... http://africanhistory.oxfordre.com/view/10.1093/ac... http://www.smithsonianmag.com/history-archaeology/... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.worldwar1.com/france/portugal.htm